Welcome

Thứ Bảy, 23 tháng 3, 2013

TENNIS COURT


Sân Tennis


Sân quần vợt có hình chữ nhật với chiều dài 23,77 m, và chiều rộng 8,23 m. Lưới được căng ở chính giữa, chia sân thành hai phần đều nhau, buộc bằng một sợi dây thừng hoặc kim loại có đường kính tối đa 0,8 cm vào hai cột lưới. Cột lưới tròn có đường kính 15 cm, nếu vuông, có chiều dài cạnh 15 cm. Cột lưới chỉ được phép cao hơn mép trên của lưới tối đa 2,5 cm. Tâm của cột đặt cách mép ngoài đường biên dọc mỗi bên 0,914 m. Chiều cao cột lưới phải buộc làm sao để mép trên lưới có độ cao 1,07 m so với mặt sân.





Khi kết hợp sân đánh đôi với sân đánh đơn và dùng lưới của sân đánh đôi để đánh đơn, lưới phải có chiều cao 1,07 m bằng cách dùng hai cọc chống ở hai bên. Cọc chống nếu tròn, đường kính là 7,5 cm, nếu vuông, cạnh bằng 7,5 cm. Tâm của các cọc chống đặt cách mép ngoài của mỗi đường biên dọc của sân đơn là 0,914 m.

Lưới phải được căng sát đến hai cột lưới. Mắt lưới phải nhỏ để bóng không thể chui lọt. Chiều cao lưới ở giữa sân là 0,914 m, ở điểm này có một dải băng màu trắng, bản rộng 5 cm buộc giữ cho lưới ở độ cao quy định. Cạp lưới màu trắng, bản rộng không nhỏ hơn 5 cm, không lớn quá 6,35 cm. Từ mép trên đến mép dưới và ở hai bên của cạp hoàn toàn màu trắng.
Ở cuối hai bên sân là đường biên ngang (đường cuối sân), và ở hai bên mép là đường biên dọc. Ở mỗi bên của lưới, kẻ đường song song, cách lưới 6,4 m, gọi là đường giao bóng. Trong khoảng sân giữa lưới với đường giao bóng, kẻ một giới hạn phát bóng ở chính giữa rộng 5 cm, chia khoảng sân thành hai phần bằng nhau, song song với đường biên dọc và gặp điểm giữa của đường giao bóng. Hai phần sân này được gọi là ô giao bóng. Ở chính giữa đường biên ngang, kẻ một vạch mốc giao bóng rộng 5 cm, dài 10 cm, vuông góc với đường cuối sân và hướng vào trong mặt sân.

Tất cả các đường kẻ khác trên sân không được phép nhỏ hơn 2,5 cm và lớn hơn 5 cm, ngoại trừ đường cuối sân có thể kẻ rộng 10 cm. Tất cả kích thước của những đường kẻ này được tính đến mép ngoài. Các đường kẻ phải cùng một màu.

Không được phép sử dụng cọc chống, sợi dây băng trắng và cạp lưới để quảng cáo. Nếu có quảng cáo hoặc các đồ vật khác ở quanh sân thì chúng không được sử dụng màu trắng hoặc vàng. Có thể dùng màu nhạt nếu không ảnh hưởng đến tầm nhìn của các tay vợt.


Các loại sân

Có 4 loại sân chính. Tùy vào nguyên liệu làm bề mặt sân, mỗi bề mặt sẽ cho tốc độ và độ nẩy khác nhau của bóng, từ đó ảnh hưởng đến người chơi:

- Sân đất nện: Sân đất nện được làm bằng đá hay gạch nghiền nát. Thường có màu đất đỏ. Loại sân này làm cho bóng nẩy chậm và lên cao. Sân này thích hợp cho các tay vợt thích đứng cuối sân thay vì lên lưới và phải có nhiều kiên nhẫn vì một điểm đánh chậm và lâu. Đa số các sân đất nện là ở Châu Âu và Châu Nam Mỹ.

- Sân cỏ: Sân cỏ ngày nay rất hiếm có vì loại sân này rất tốn kém để gìn giữ. Đa số sân cỏ ngày nay chỉ thấy ở Anh vì người Anh vẫn thích giữ truyền thống quần vợt. Loại sân này làm cho bóng đi nhanh, nẩy thấp và không đều. Vì thế nó thích hợp với những tay vợt thích phát bóng và lên lưới (serve and volley).

- Sân cứng: Sân cứng thật sự có nhiều loại khác nhau. Có thể nó chỉ giản dị là sân xi măng hoặc nó được làm bởi nhiều lớp cao-su mỏng trộn với cát rồi đổ lên mặt xi măng. Loại sân này thường làm cho bóng đi nhanh, nẩy cao và đều. Nó thường thích hợp với những tay vợt thích phát bóng và lên lưới (serve and volley) nhưng người ta cũng có thể làm cho mặt sân này "chậm" hơn lại bằng cách làm cho mặt sân nhám hơn hay mềm hơn.

- Sân thảm: Sân bằng thảm thường được dùng khi người ta mượn sân bóng rổ hay các sân thể thao khác trong nhà để tranh giải quần vợt. Ban tổ chức trải một loại thảm đặc biệt chế tạo cho quần vợt lên trên sân và dựng cột và lưới. Sân thảm thường có độ nảy trung bình nên thích hợp cho mọi loại đấu thủ.

Hiện nay các giải Grand Slam đang dùng các bề mặt sân khác nhau: Giải Úc Mở rộng dùng sân cứng nhám hay mềm, giải Pháp Mở rộng dùng sân đất nện, Wimbledon dùng sân cỏ, và giải Mỹ Mở rộng thì dùng sân cứng mặt xi măng.


Ghi chú 1: Tại các giải đấu chính thức của Liên đoàn Quần vợt thế giới, cần có một khoảng rộng ở sau mỗi đường biên ngang không dưới 6,4 m và ở hai bên không ít hơn 3,66 m. Các ghế của trọng tài biên có thể đặt ở cách sau khoảng cách chạy đà cuối sân 6,4 m trở ra và ở hai bên cũng phải ngoài giới hạn 3,66 m.
Ghi chú 2: Tại Davis Cup và Fed Cup thì khoảng trống của sân quần vợt ở sau hai bên đường cuối sân không nhỏ hơn 8,23 m và khoảng trống ở hai bên đường biên dọc không ít hơn 4,57 m.
Ghi chú 3: Ở các CLB hoặc khu giải trí, khoảng trống ở sau hai bên đường cuối sân không nhỏ hơn 5,5 m và khoảng trống ở hai bên đường biên dọc không nhỏ hơn 3,05 m.


 Nguồn tham khảo: Internet